Vảy nến là bệnh phổ biến chiếm tới 5% dân số của Châu Âu, 2% dân số của Châu Á và Châu Phi, gần bằng 10% tổng số người bệnh đến thăm khám tại các phòng khám và bệnh viện gia liễu.
Tuy là bệnh lành tính, gần như không ảnh hưởng gì tới sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng lớn về tâm lý, thẩm mỹ cùng những hệ lụy sau này của nó.
Thường thì nam giới bị nhiều hơn nữ giới, người lớn bị nhiều hơn trẻ em. Bệnh hay phát thành từng đợt, thường tăng giảm tùy theo mùa.
Mục Lục
Bệnh vảy nến là gì
Vảy nến là bệnh ngoài da phổ biến chỉ sau eczema, chủ yếu do rối loạn biệt hóa lành tính ở các tế bào thượng bì, trong tài liệu của nhiều tác giả nước ngoài thống kê cho thấy nội trú chiếm từ 4-8%, ngoại trú chiếm từ 2-7% so với tổng số bệnh nhân bị bệnh ngoài da đến thăm khám và chữa trị.
Bệnh không gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe nhưng lại khá dai dẳng và hay tái phát do đó ảnh hưởng nhiều đến việc sinh hoạt, học tập, lao động và tâm lý người bệnh.
Bệnh thường phát mạnh vào mùa Đông ở đầu các ngón tay chân, người bị nặng thì lan ra toàn thân, có thể kèm theo sưng đau các khớp chân.
Bệnh vẩy nến còn được gọi với các tên khác như Tùng Bì Tiễn, Ngân Tiêu Bệnh, Chủy Phong, Bạch Thủy, Tùng Hoa Tiễn, Bạch Xác Sang.
Cái tên “Bạch Chủy” xuất hiện đầu tiên trong sách Ngoại Khoa Đại Thành.
Trong sách Phong Môn Toàn Thư cho biết: “Vùng bị tổn thương lõm như một đồng tiền lớn, bên ngoài màu trắng bên trong có màu hồng, châm kim vào thì không thấy chảy máu, chỉ ra loại nước màu trắng như màu bạc. Ban đầu phát ra ở cơ thể sau đó mới phát ở mặt”.
Các loại bệnh vảy nến
- Dạng phổ biến nhất là vảy nến thể mảng: Vùng da bệnh bị đóng vẩy màu trắng bạc bên trên, lớp da bên dưới vảy có màu đỏ ửng.
- Vảy nến giọt: Xuất hiện dưới dạng các sang thương hình bầu dục có màu đỏ ở thân, các chi và trên da đầu.
- Vảy nến mủ: Xuất hiện các bóng nước chứa mủ trên bề mặt da.
- Vảy nến đảo ngược: Xuất hiện ở dạng các mảng đỏ, láng ở da có nếp gấp tại vùng bẹn, quanh cơ quan sinh dục, dưới nách, vú,…
- Vảy nến đỏ da: Loại này là ở mức độ nặng, da bị đỏ và tróc ra thành từng mảng thường ảnh hưởng đến một vùng lớn trên cơ thể. Có thể gây ra tử vong do da bị mất chức năng bảo vệ dẫn tới những hậu quả nặng nề như các rối loạn thân nhiệt hay cân bằng nước – điện giải.
- Bệnh vẩy nến ở da: Xuất hiện các mảng đỏ có ranh giới rõ trên da, phía trên lại vẩy dày màu trắng. Thấy khô cứng khi chạm nhẹ vào vùng da bị bệnh. Các thương tổn ở đầu thì khó xác định hơn do bị tóc che khuất, vì vậy nếu tự nhiên thấy ở đầu có nhiều gầu và dày hơn trước thì cần chú ý kiểm tra.
- Viêm khớp vảy nến: Có thể bị viêm bất cứ khớp nào, chủ yếu ở các khớp ngón chân, ngón tay, đôi khi xảy ra ở khớp gối, hông, cột sống…
- Bệnh vẩy nến ở móng: Bề mặt móng dày hoặc có nhiều lỗ nhỏ.
- Bệnh vảy nến thể đỏ da toàn thân.
- Bệnh cẩy nến thể Phong Nhiệt: Xuất hiện những nốt chấm với số lượng nhiều và liên tục, lâu ngày sinh to dần, ngứa nhiều, màu trắng đục, mọc ở chân tay hoặc ở mặt, đầu, râu, có thể gây hoại tử da sau đó có chấm xuất huyết. Kèm biểu hiện khát, sốt, ngứa, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng, họng khô và đau.
- Bệnh Vẩy nến Thể Phong Huyết Táo (gặp ở thể bệnh kéo dài): Nhiều nốt ban chẩn mới ít xuất hiện, những nốt cũ mầu hơi đỏ, ngứa, mặt da khô, lưỡi ít tân dịch, rêu lưỡi hơi vàng mà khô.
- Bệnh vảy nến thể Phong Hàn: Xuất hiện nhiều vết chấm giống như đồng tiền hoặc thành từng mảng mầu hồng, trên mặt mụn có thể gây thối nát, phát bệnh suốt quanh năm. Từ mùa đông tới mùa hè thường tự giảm bớt hoặc ẩn đi, rêu lưỡi trắng nhạt, lưỡi hồng nhạt.
- Bệnh Vẩy nến thể Thấp Nhiệt: Xuất hiện nhiều vết chấm giống như nước trong lỗ rỉ ra ở bên dưới vùng hội âm, bầu vú, hố mắt, vùng sinh dục, khuỷ tay, da có màu hồng xám, thường gom lại thành những mảng lớn, vùng bị tổn thương chảy nước màu trắng đục, hơi ngứa, cơ thể nóng, mệt mỏi, miệng khô, không khát, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi vàng hoặc có ngấn bệu.
- Bệnh vẩy nến Thể Huyết Nhiệt: Tái phát hoặc mới phát không lâu, có vết sần nổi lên giống dạng đồng tiền hoặc như bùn, thường nổi các hạt nhỏ như ban chẩn, to nhỏ không đều, màu hồng tươi, mọc nhiều tại tứ chi, đôi khi mọc ở vùng đầu hoặc mặt trước, bề mặt vết sần có màu trắng đục, khô, dễ vỡ nát có khi có rướm máu, tâm phiền, kèm ngứa, khát, tiểu ít, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ sậm, rêu lưỡi hơi vàng.
- Bệnh vảy nến thể Huyết Ứ: Vết ban màu tím hoặc đỏ tối, nhỏ to không đều, bề mặt hơi lõm, khô trắng đục, không bị bong da, xuất hiện thêm một ít vết ban nhỏ kèm theo ngứa hoặc không ngứa, miệng khô, không muốn uống, lưỡi có điểm ứ huyết hoặc đỏ tối, rêu lưỡi hơi vàng hoặc trắng nhạt.
- Bệnh Vẩy nến thể Huyết Hư: Bệnh kéo dài lâu ngày lại gặp cơ thể vốn suy yếu, da chuyển sang trắng bạch, có nhiều vết ban giống từng mảng hoặc phát ra toàn thân, màu hồng nhạt tối hoặc nhạt ướt, bong da xuất hiện ngay vết ban mới, ngứa, nhẹ hay nặng màu da cũng không thay đổi, biểu hiện chóng mặt, ăn uống kém, ít ngủ, lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi ít, ít tân dịch.
- Bệnh Vẩy nến Mạch Xung Nhâm Không Điều Hoà: Nổi nhiều nốt sẩn trên da, đặc biệt vào thời kỳ mang thai, sinh đẻ, kinh nguyệt, phần lớn trước khi có kinh, đang mang thai và trước khi sinh bị phát nặng hơn, một số ít sau khi có kinh hoặc sau khi sinh mới phát. Toàn cơ thể xuất hiện các vết ban mọc thành từng đám, màu đỏ tươi sau đó chuyển sang trắng đục, khi mới phát có những vết xuất huyết. Toàn thân hơi ngứa, miệng khô, tâm phiền, đau lưng, đầu váng, lưỡi đỏ sẫm hoặc đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng.
- Bệnh Vẩy nến Nhiệt Độc Thương Doanh: Trường hợp này phát bệnh nhanh, toàn thân xuất hiện ban đỏ, đỏ sẫm, đỏ tím, nóng, khi ấn vào thì nhạt màu, bong da, sưng phù, toàn thân sốt cao, sợ lạnh, khát, tâm phiền, tinh thần uể oải, tay chân không có sức, lưỡi đỏ sẫm, ít tân dịch.
Mùa khô bệnh phát triển mạnh hơn, gây ra đau đớn khi vùng da nhiễm bệnh bị va chạm hay có biểu hiện chảy máu chỗ da bị nứt (Có khi nhầm lẫn với bị nứt nẻ da thường gặp ở mùa khô).
Cần phân biệt với:
- Bạch Tiêu Phong (Can Tính Bì Chỉ Dật): Bệnh gặp nhiều tại vùng đầu, chủ yếu có màu trắng tro hoặc màu đục như mỡ, để lâu ngày gây ra rụng tóc (hói).
- Phong Nhiệt Sang (Mai Côi Đường Chẩn): Là nốt ban có màu hơi trắng bạc, hình tròn, chủ yếu ở vùng khô, có thể tự khỏi.
- Hồ Niệu Thích (Mao Phát Hồng Đường Chẩn): Vết ban phía trên có đầu nhỏ không rướm máu, không làm trắng da, có màu trắng đục.
- Vảy nến thể chấm giọt: Cần chú ý phân biệt với bệnh sẩn giang mai II (có viền biệt, màu đỏ sẫm, cộm), Á vảy nến ở thể giọt (vảy có màu nâu, khi cậy bong ra thành một lớp giống gắn xi).
- Cần phân biệt với á sừng liên cầu ở da mặt, da đầu trẻ em.
- Cần phân biệt với nấm móng ở các móng.
- Ở nếp kẽ cần phân biệt với loét kẽ, hăm kẽ.
Triệu chứng của bệnh vẩy nến
Bệnh vảy nến thường có những biểu hiện dưới đây:
- Thương tổn da: Biểu hiện rõ nét nhất của căn bệnh này là bị dát đỏ, có vảy trắng phủ lên bề mặt, vảy dày, có nhiều lớp xếp chồng lên nhau và rất dễ bong, trông giống như giọt nến. Kích thước tổn thương to nhỏ khác nhau tùy thuộc vào tình trạng bệnh nặng hay nhẹ, nhưng thường dao động từ 1-20cm hoặc có thể hơn.
- Thương tổn khớp: Tỷ lệ khớp bị thương tổn ở vẩy nến tùy vào từng thể. Ở thể nhẹ, tổn thương da khu trú, chỉ có khoảng 2% bệnh nhân có biểu hiện khớp. Nhưng sang thể thể nặng, dai dẳng thì có tới 20% bệnh nhân bị thương tổn khớp. Biểu hiện thường gặp nhất là viêm khớp mạn tính, lệch khớp, cứng khớp, biến dạng khớp, việc đi lại cử động của bệnh nhân rất khó khăn.
- Thương tổn móng: Có khoảng 30-40% bệnh nhân vẩy nến bị tổn thương trên móng. Các móng có chấm lỗ rỗ hoặc có hình gợn sóng trên mặt, ngả màu vàng đục. Móng dễ gãy, rất mủn, nhiều người bệnh có khi còn mất cả móng.
Nguyên nhân gây Bệnh Vẩy nến
Đến tận nay vẫn chưa có kết luận rõ ràng về nguyên nhân gây nên bệnh vẩy nến. Tuy nhiên người ta khẳng định chắc chắn về các yếu tố sau đây là tác nhân hình thành cơ chế sinh bệnh:
- Do ngoại tà khách ở bì phụ: Lục dâm (hàn, phong, thấp, nhiệt, táo, thử) xâm nhập vô phần cơ, phu làm không tuyên thông khí của Phế vệ, khiến cho kinh lạc bị cản trở, ứ đọng tại da (phu tấu), không thể cung cấp chất dinh dưỡng đến da.
- Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận Viết: “Tấu lý hư yếu, phong và khí xâm nhập vào, gây ra bệnh do huyết ứ lại không đi nuôi dưỡng được cơ nhục”.
- Di truyền: Có đến 30% bệnh nhân bị bệnh do yếu tố gia đình (cha, mẹ, anh chị em ruột hay họ hàng trực hệ); tới 70% các cặp song sinh cùng bị. Báo cáo từ các nghiên cứu chỉ ra rằng các kháng nguyên B13, B17, DR7, HLAW6 liên quan tới vảy nến da và khớp.
- Do Tình Chí Nội Thương: Thất tình bị ức chế, uất kết nhiều ngày hóa thành hỏa, hỏa nhiệt mà hóa thành độc tả tới phần doanh huyết, phía bên ngoài thì ảnh hưởng đến phụ tấu (da), bị bít lỗ chân lông gây không thông, khí trệ huyết ứ gây ra bệnh vẩy nến.
- Nhiễm khuẩn: vẩy nến thể giọt, vẩy nến ở trẻ em người ta có thể phân lập với liên cầu khuẩn ở tổn thương để điều trị kháng sinh có thể giúp bệnh thuyên giảm.
- Do trúng độc: Do ăn quá nhiều thức ăn nóng, cay, tươi sống, trứng, tanh… làm cho phong bị động, Tỳ Vị không thể điều hoà, khí trệ không được thông, thấp nhiều cùng kết lại, thấm vào tấu lý, khi gặp phải hàn thấp, khí huyết tương bác nhau gây ra bệnh.
- Stress: Là nguyên nhân khiến bệnh đột ngột tăng lên hoặc tái phát.
- Thuốc: Sử dụng một số loại thuốc có thể là nguyên nhân gây bệnh: lithium, chẹn beta kéo dài, nhất là sau khi sử dụng corticoid.
- Hiện tượng Kobner: các kích thích cơ học có thể gây nên thương tổn như chà xát, gãi hoặc một số kích thích lý hóa (mức độ nặng nhẹ của bệnh theo mùa).
- Do Mạch Xung và Nhâm Không Điều Hoà: Do mạch Xung và Nhâm có liên hệ với tạng Can và Thận, do đó kinh nguyệt và sinh dục là tác nhân làm cho mạch Xung và Nhâm không được điều hoà, khiến âm dương của Can Thận bị thiên lệch, thể hiện ở việc âm hư nội nhiệt hay do dương hư ngoại hàn, nhiều ngày làm cho chân nhiệt giả hàn hoặc âm dương đều hư.
Tóm lại, Bệnh vảy nến chủ yếu là do rối loạn ở phần huyết như huyết ứ, huyết táo, huyết nhiệt. Bệnh lâu ngày gây ảnh hưởng đến tạng phủ, trong đó chú ý ảnh hưởng đến Can Thận.
Những điều cần tránh với Bệnh Vảy nến
Cần tránh 5 yếu tố sau là cơ chế sinh bệnh:
- Bị căng thẳng (stress)
- Hành động bóc da và kì cọ (hiện tượng Kobner)
- Để da tiếp xúc với các chất có tính bazơ cao như vôi, xà phòng… vì chúng sẽ khiến lan rộng vùng da nhiễm bệnh.
- Người mắc thêm bệnh tim mạch phải hết sức cẩn thận khi sử dụng thuốc.
- Bị nhiễm khuẩn: Nhiễm mũi, họng, tai có thể là nguyên nhân và tác nhân khiến bệnh nặng.
- Uống rượu: Cần tránh uống rượu vì nó là nguyên nhân làm bệnh nặng thêm.
- Xuống tinh thần khi bị bệnh: Bệnh phổ biến nhưng lành tính, khoa học cũng đang không ngừng nghiên cứu để tìm ra phương pháp chữa trị hiệu quả. Vì vậy chúng ta cần lạc quan tin tưởng, không nên u buồn, suy nghĩ nhiều khiến bệnh nặng hơn.
- Hạn chế gây trầy xước vùng da bệnh, có thể khiến nhiễm trùng vết thương, gây ra đau đớn. Cần lưu ý các loại thuốc bôi dưỡng da, trước khi dùng loại nào cần xem kỹ thành phần tác dụng.
Cách chữa bệnh vảy nến
Chữa vảy nến theo phương pháp Tây y:
Điều trị tại chỗ: Sử dụng các loại kem, mỡ, dung dịch với mục đích tiêu sừng, bong vẩy, hạn chế hình thành nhanh chóng vẩy da như:
- Goudron
- Vitamin D3
- Mỡ Salycile 5%, 10%
Lưu ý:
- Nếu bị ở bàn chân thì nên đi tất, giày mỗi khi ra ngoài đường, việc này sẽ giúp da chân không bị khô, mặt khác có thể giúp ngăn ngừa nhiễm khuẩn vùng da có vết nứt.
- Tránh tiếp xúc với xà phòng.
- Nên đi khám chuyên khoa da liễu.
Điều trị toàn thân:
- Methotrexate
- Acitretine (Soriatane)
- Cyclosporin (Neoral)
- Quang hóa trị liệu: PUVA
- Quang trị liệu: UVB phổ hẹp (UVBTL01)
Chữa vảy nến theo phương pháp Đông y
Bài thuốc 1: Dùng cho người bị vẩy nến kéo dài:
Hà thủ ô, ké đầu ngựa, ngân hoa, huyền sâm, sinh địa, hỏa ma nhân mỗi vị 12g. Sắc thuốc uống ngày 1 lần.
Thuốc rửa ngoài gồm: Phác tiêu, hỏa tiêu, dã cúc hoa, khô phàna. Nấu nước rửa ngày 1 lần.
Bài thuốc 2: Thuốc ngâm rửa dành cho người bị toàn thân trên diện rộng:
Dùng 240g cúc hoa dại, 120g khô phàn, 500g mang tiêu, 120g xuyên tiêu. Sắc lấy nước ngâm hoặc tắm mỗi ngày. Có thể cách ngày ngâm 1 lần.
Bài thuốc 3: Rau má, kinh giới, ké đầu ngựa, bồ công anh, bạc sau, cây trinh nữ, thổ phục linh, xích đồng, hạ khô thảo, vỏ gạo, khổ sâm, kim ngân, đơn đỏ, xác ve sầu mỗi vị12g, sắc nước uống 2 lần trong ngày, từ 1-2 ngày.
Sau khi uống nước thuốc xong, cho thêm 1 ít nước vào nấu lại lấy nước nước tắm, ngâm mục đích làm cho lớp da chết bong ra.